Việt Nam hậu COVID-19: Lực lượng lao động giảm sâu nhất kể từ năm 2011
Hàng triệu người đã phải huỷ bỏ kế hoạch đi xuất khẩu lao động sang Nhật Bản, Đài Loan hay Hàn Quốc do việc hạn chế đi lại giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, nhiều người Việt từng đi xuất khẩu lao động cũng phải hồi hương do dịch bệnh.
Theo số liệu Điều tra lao động và việc làm quý II/2020 do Tổng cục Thống kê công bố, gần 31 triệu người trong độ tuổi lao động ở Việt Nam phải chịu tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19. Phần lớn người lao động vẫn có việc làm nhưng thu nhập bị cắt giảm do hoạt động kinh tế giảm sút (ảnh hưởng tới 72% lao động trong khu vực dịch vụ), hay chuỗi cung ứng bị gián đoạn (ảnh hưởng tới 67,8% lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng). Tỉ lệ lao động bị ảnh hưởng trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 25,1%.
Về tổng thể, lực lượng lao động đã giảm xuống còn 53,1 triệu người, thấp hơn 2,4 triệu người so với quý II/2019. Đây là mức giảm sâu nhất kể từ cuộc điều tra lao động và việc làm bắt đầu vào năm 2011.
Tiến sĩ John Walsh nhận định rằng: “Mặc dù mọi nhóm lực lượng lao động đều chịu ảnh hưởng ít nhiều, lao động nữ và lao động ở vùng sâu vùng xa là những nhóm chịu tác động lớn nhất vì các hộ gia đình phải cân nhắc xem ai là người lo miếng cơm manh áo và ai sẽ mất việc.
Các hộ gia đình ở nông thôn có thể đón nhận một số lao động di cư từ thành thị trở về và sử dụng họ trong các công việc bán thời gian. Nhưng điều này thường đồng nghĩa với việc lao động nữ sẽ mất việc”.
Nhìn chung người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn sẽ ít bị ảnh hưởng hơn. Những người phụ thuộc vào kinh tế tiền mặt (chẳng hạn như bán hàng rong) chịu ảnh hưởng nặng nề hơn vì nhiều hoạt động ở thành thị bị hạn chế trong thời gian giãn cách xã hội, và họ không có “sếp” – những người có thể sắp xếp cho họ công việc khác.
Cùng với đó, hàng triệu người đã phải huỷ bỏ kế hoạch đi xuất khẩu lao động sang Nhật Bản, Đài Loan hay Hàn Quốc do việc hạn chế đi lại giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, nhiều người Việt từng đi xuất khẩu lao động cũng phải hồi hương do dịch bệnh.
Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn sẽ ít bị ảnh hưởng hơn.
“Người lao động thì mất cơ hội kiếm thu nhập và Việt Nam cũng mất đi lượng kiều hối đáng kể vì đó. Các kỹ năng, năng lực và mạng lưới quan hệ mới mà lẽ ra những người này có thể đem đến cho kinh tế Việt Nam cũng bị ngưng trệ”, vị này cho hay.
Mức độ mở của nền kinh tế cũng đặt ra một điều khác phải cân nhắc: người Việt đang xuất khẩu nhiều loại hàng hoá mà bản thân họ không tiêu thụ trong nước và mua hàng hoá nhập khẩu mà họ không tự sản xuất được. Để giảm nguy cơ đến từ thực trạng này, chính phủ nên cân nhắc điều chỉnh trọng tâm sản xuất để người Việt có thể dùng hàng Việt nhiều hơn.
“Các nhà hoạch định chính sách nên tìm cách tăng lương tối thiểu, cũng như nâng cao kỹ năng và trình độ học vấn của người lao động trong nước để có thể hợp với mức lương tăng”. Bên cạnh đó ông Walsh cũng cho rằng nên hỗ trợ nhiều hơn cho lao động trong sản xuất nông nghiệp để giảm thiểu nguy cơ tổn thương của nhóm lao động đặc thù này. Ông đề xuất bổ sung kiến thức và nguồn lực cho các dự án hướng tới gia tăng giá trị của các mặt hàng và thương hiệu cụ thể, đồng thời phân phối các sản phẩm này ra các nước trong khu vực và thị trường quốc tế.
Tựu trung, dù kiểm soát thành công tác động của COVID-19 lên sức khoẻ cộng đồng, Việt Nam đã và đang chịu tổn thất không ít về kinh tế, và có lẽ lực lượng lao động là đối tượng bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ đại dịch này.
Nguồn: brandsvietnam